top of page

Thiên Di & những thể nghiệm sáng tạo vượt ngưỡng từ văn chương đến hội hoạ


Giải thích ý niệm về "thiên di" trong triển lãm cá nhân lần thứ 3, Lê Minh Phong cho biết: “Tôi đã cùng lúc làm những cuộc chuyển dời khác nhau. Có những cuộc chuyển dời thuần về mặt địa lý, có những cuộc chuyển dời đến từ sự lay động trong tâm thức, và có những cuộc chuyển dời đến từ sự tác động của tha nhân. Tất cả đều là những cuộc chuyển dời, biến thiên không thể cự tuyệt”.




Triển lãm Thiên di

Tác giả: nhà văn - họa sĩ Lê Minh Phong
Khai mạc lúc 18h ngày 2/12 tại HAKIO - Let’s Art (38 Trần Cao Vân, Q.3, TP.HCM). Diễn ra đến 18/12/2022, bày hơn 50 tranh.
 
Lê Minh Phong và những giấc mơ về thiên di
Lê Minh Phong cất tiếng hát của những kẻ lưu lạc 

“Chúng tôi đi từ khởi thủy cho tới bây giờ, đi từ những khúc hát đồng dao cho tới những điệp trùng sử thi, đi từ rừng núi đến biển cả, đi từ bóng tối ra ánh sáng, đi từ đau khổ tới hạnh phúc, đi từ nô lệ tới tự do. Chúng tôi đi từ những huyền thoại, dã sử mịt mùng, đi từ Xích Quỷ tới Văn Lang, từ Văn Lang tới Đại Việt. Chúng tôi đi như để tìm về miền đất hứa, mong số phận được đổi thay. Và trên những cuộc chuyển dời đó, chúng tôi thấy nước mắt, thấy lầm than, thấy cả những tủi hờn, hạnh phúc”.


“Thiên di cũng chính là những cuộc chuyển dời của chính tôi trong ngôn ngữ nghệ thuật, trong cách tôi nhìn và phản ánh số phận con người thông qua mỗi tác phẩm. Con người trong thế giới nghệ thuật của tôi không tĩnh tại. Họ luôn dời đi trong sự vẫy gọi của những miền đất hứa. Trong suốt cuộc lữ của mình, họ là những kẻ bi nhưng không lụy. Sự kiêu mạn, bất khuất trong ánh mắt của họ đã cho họ sức mạnh để tồn tại trước những tai ương. “Thiên di cũng đồng thời là cách chuyển dời, hỗn dung giữa các ngôn ngữ tạo hình như siêu thực, biểu hiện, tượng trưng, dã thú… Là sự chuyển dời từ nghệ thuật tiền hiện đại đến hậu hiện đại. Là tiếng lòng khát khao tự chủ của tổ tiên tôi và cả tôi nữa. Thiên di cũng là cuộc chuyển dời từ tâm thức hiện thực trần trụi đến tâm thức lãng mạn trong tôi: tâm thức hiện thực là những tủi hờn, khổ đau; tâm thức lãng mạn chính là đôi cánh để vượt lên những tủi hờn, khổ đau ấy. Tâm thức lãng mạn là thi tính, là suối nguồn để tôi tiếp tục làm những cuộc chuyển dời không ngơi nghỉ”.


Từ văn chương tới hội họa

Tôi rất gần gũi với những người dân nghèo, hơn ai hết tôi hiểu cuộc sống và ước mơ của họ, họ có những nỗi đau hơn cả nỗi đau và họ có những ước mơ mà đáng nhẽ ra đó chỉ là điều bình thường. Tôi tự nhận thấy mình là người nhạy cảm, tôi rất dễ đau khi người ta đau, rất dễ buồn khi người ta làm mình buồn và nữa, tôi rất thích nhìn vào nỗi buồn của người khác, đặc biệt là những người dân lam lũ quanh tôi. Thậm chí, đôi khi, chính sự quan sát nỗi buồn đau của những người xung quanh cho tôi lớn lên từng ngày. Tôi cũng thường ngồi quan sát nỗi buồn của chính mình, tôi muốn biết nỗi buồn của tôi chúng thực sự ở đâu, chúng sinh ra để làm gì, hay chỉ để đọa đày tôi; tôi không trốn chạy chúng mà muốn tóm lấy chúng và kể những câu chuyện về chúng. Trong khi kể chuyện về những nỗi buồn của tha nhân và của chính mình, tôi thụ hưởng một cái thú mà Phạm Duy gọi là “thú đau thương”.


Để thấu hiểu hơn về hành trình nghệ thuật của nghệ sĩ Lê Minh Phong ta sẽ cùng khám phá từ sự nghiệp văn chương đến hội họa

Từ văn chương

Sáng tác văn chương dù dựa trên bất kì lớp ngôn ngữ nào, dù có viết theo bút pháp của trường phái nào thì cũng đều cần đến hiện thực, văn chương hiện thực thì miêu tả hiện thực, văn chương huyền ảo, siêu thực thì dựa trên hiện thực rồi bóp méo hiện thực để tham vọng đến gần với hiện thực hơn. Văn chương của tôi cũng vậy, những ý niệm trong văn chương của tôi cũng đến từ hiện thực. Tôi còn nhớ, truyện ngắn đầu tiên của tôi ra đời là dựa trên hình ảnh một người phu xích lô say khướt. Hôm ấy, dưới ánh trăng, người lái xích lô ấy say khướt, ông trở về nhà sau một ngày mỏi mệt, ông vừa đi vừa hát, vừa khóc và oán trách cuộc đời… Dưới ánh trăng, tôi thấy người đàn ông ấy đẹp quá, một vẻ đẹp rất quái dị, lầm lũi, ma quái và ngang tàng. Và rồi tôi viết câu chuyện đầu tiên về kẻ lầm lũi và ngang tàng đó.



Khi tôi bắt đầu viết văn thì cũng là lúc người ta nói nhiều về trào lưu văn học Hậu hiện đại, một trào lưu nghệ thuật gây ra nhiều tranh cãi trên thế giới, và khi được giới thiệu quảng bá ở Việt Nam, nó cũng gây ra nhiều tranh cãi không kém. Tôi tìm hiểu trào lưu sáng tác này và nhận thấy bút pháp của văn chương Hậu hiện đại có thể phù hợp với những ý tưởng của tôi. Rồi từ đó tôi lao vào thử nghiệm.


Các đặc trưng của văn chương Hậu Hiện Đại như con người phản tỉnh, nhìn cuộc sống theo chiều hướng giễu nhại, con người thụ cảm chính nỗi cô đơn và nỗi hoài nghi của mình, nhìn cuộc sống đa chiều, giải tự sự, không tham vọng xây dựng đại tự sự như văn chương trước đó… Tôi nhận thấy có nhiều ý tưởng của tôi có thể được triển khai dựa trên những đặc trưng này.


Tôi không tán thành việc người ta xem nhà văn sáng tác không cần đến lý thuyết, nếu một nhà văn sáng tác không dựa trên lý thuyết để khai triển bút pháp của mình thì đó là một tổn thất lớn. Nhưng cái khó nhất là làm sao để tác phẩm văn học của mình không phải là hình minh họa của hệ thống lý thuyết. Dựa vào lý thuyết nhưng tác phẩm phải có biên giới và khả năng tự mở rộng biên giới hơn cả lý thuyết khô cứng. Tác phẩm không phải là sự trình hiện một cách khô cứng, máy móc những đặc trưng của lý thuyết mà tác phẩm phải có một căn cước riêng dựa trên những đặc trưng lý thuyết và vượt ra ngoài lý thuyết, ranh giới của đâu là lý thuyết và đâu là tác phẩm phải được xóa nhòa không tì vết.


Để làm được những điều trên tôi thấy rằng mọi thứ cần phải được xuất phát từ tâm thức, tâm thức chính là trí tuệ, ý thức và vô thức, vừa là lý tính cũng vừa là trực giác, chính là sự thật bên trong, là cội nguồn văn hóa, là gốc rễ và là căn tính tồn tại. Khi có được tâm thức làm nền tảng để triển khai mọi thứ thì tất cả những gồ ghề sẽ được mài giũa.



Viết văn, tôi cố gắng viết ngắn nhất có thể. Để làm được điều đó tôi không sa vào mô tả chi tiết khách quan, miêu tả hiện thực, không đi vào những câu chuyện lê thê. Tôi thường dựa vào ý tưởng, sau đó là chắt lọc hình ảnh, từ những hình ảnh ấy tôi cố gắng cho chúng va đập với nhau tạo thành ý niệm. Đôi khi truyện của tôi chỉ là sự kết hợp các biểu tượng để tạo sinh ý nghĩa. Như thế nỗ lực viết ngắn của tôi đỡ gặp khó khăn hơn.


Cái khó nhất của viết ngắn đó chính là sự chắt lọc hình ảnh, sự kết hợp các hình ảnh phải sinh ra ý niệm, từ sự kết hợp hình ảnh một cách hợp lý thì văn bản tuy ngắn nhưng lại dồn nén khả năng biểu nghĩa cao. Tôi nhận thấy Văn học Việt Nam cả một thời kỳ dài bị cầm tù bởi bút pháp của văn học hiện thực, thi pháp hiện thực ám ảnh một cách dai dẳng. Chúng ta bị giam cầm trong tính “chuyện”. Thậm chí đôi khi chúng ta nghĩ rằng chỉ cần có cốt truyện là xong, việc của nhà văn là bắt đầu kể cho đến khi hết “chuyện.” Điều này khiến sáng tác văn chương trở nên dễ dãi, việc của nhà văn là chỉ kể và ít khi cân nhắc về thủ pháp thể hiện. Do đó về thể loại, truyện ngắn trong văn chương chúng ta rất ít khi có những đổi mới, và người ta nhận thấy truyện ngắn chính là thể loại khó thay đổi nhất về mặt thi pháp. Dù ít hay nhiều thì bản thân tôi cũng đã nỗ lực để mong có thể thoát ra khỏi những ám ảnh ấy, những ám ảnh đến từ sự nệ thực.


Hình tượng con người trong các tác phẩm của tôi là những người khốn khổ, họ bị bủa vây với trăm điều phi lý, những kẻ sống dật dờ, những kẻ bơ vơ không nơi bám víu, những kẻ ăn bóng đêm, những kẻ điên loạn không chạy trốn hay muốn trốn thoát sự phi lý mà ngược lại, họ thụ hưởng sự phi lý.


Vì thế tôi tìm đến thế giới của các bậc thầy như Franz Kafka, Cao Hành Kiện, Garcia Marquez, Camus, Jorge Luis Borges. Họ là những nhà văn lớn nhất của văn học hiện đại. Họ có quá nhiều thứ vượt khỏi tầm tri nhận hiện tại của tôi. Họ luôn linh hoạt, san phẳng các biên giới, và là những người biết cách chơi đùa với những giấc mơ và đồng thời, là những kẻ vô cùng kín đáo, bí ẩn. Tôi men theo dấu chân của họ, học tập ở họ cách lý giải thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài, cách họ triển khai ý tưởng, cách họ kết hợp giữa nội dung và hình thức để tạo thành một tổng thể hợp nhất cho từng tác phẩm.


Tới hội họa

Thực hành văn chương được một thời gian tôi nhận thấy rằng có những ý tưởng của tôi nếu chỉ dựa vào ngôn ngữ (viết) thì biên giới sẽ chậm được nới rộng. Bởi ngày nay, xã hội đang được vận hành thông qua hình ảnh, lịch sử đang được viết bằng hình ảnh. Và nữa, có nhiều điều tôi muốn nói nhưng nếu thông qua tác phẩm văn học, tôi sẽ gặp khó khăn hơn so với việc tôi biểu lộ chúng thông qua hình họa của một họa phẩm.


Những người đi trước tôi người ta vẫn song hành giữa văn chương và hội họa, tôi thấy thế giới của họ được mở ra rộng hơn, khả năng gửi gắm thông điệp được nhân lên nhiều hơn. Song hành giữa văn chương và hội họa cho tôi niềm vui và niềm cảm hứng lớn hơn, đôi khi những hình tượng bị mắc kẹt trong văn học tôi lại thể hiện chúng qua hội họa và ngược lại. Thậm chí có nhiều hình tượng tôi đã khai triển trong văn học nhưng chưa thỏa mãn, tôi lại tiếp tục cho chúng đi vào hội họa để chúng được hiện hữu một cách trọn vẹn hơn. Ví dụ như hình tượng người điên, người mẹ, những kẻ lãng du, những người hành khất, kẻ lưu lạc, tha hương…, họ đi vào văn chương và hội họa tôi rất nhiều.



Đặc trưng của hai loại hình nghệ thuật văn học và hội họa tất nhiên sẽ có nhiều khu biệt đến từ chất liệu, cách thức thể hiện, khai thác chất liệu, cách thức gửi gắm tiếng lòng thông qua mọi thủ pháp nhưng tựu chung, ẩn dưới mọi thứ vẫn là căn tính của tôi, chúng thống nhất và cùng tìm kiếm một mô hình chung về sự tồn tại của tôi, về cách tôi truy vấn thân phận con người, thân phận của chính tôi trong cuộc đời lắm nghiệt ngã này.


Nhưng con người trong hội họa của tôi không phải là những kẻ chỉ biết ẩn mình trong bóng tối, những kẻ say sưa thụ cảm phi lý trong cơn điên tàng tập thể, những kẻ chỉ biết sống trong không gian chật hẹp bị bủa vây bởi sự phi lý mà ngược lại, vẫn trong số phận bi đát ấy, họ ra đi, họ làm những cuộc chuyển dời, họ đi dần về phía ánh sáng. Đúng như tinh thần của cuộc THIÊN DI này.



Những cuộc di chuyển của các nhân vật trong hội họa của tôi cho tôi thấy rằng chức năng của nghệ thuật, ngoài việc phơi bày cái thú đau thương thì cần lắm phải gieo những hạt mầm hi vọng. Vì thế các nhân vật của tôi phải đi, phải dịch chuyển, phải làm những cuộc thiên di từ bóng tối ra ánh sáng, từ những vùng đất khô cằn tới những vùng đất màu mỡ, từ nô lệ tới tự do, từ những khúc ca sầu thương ai oái tới những khúc ca bi hùng, kiêu mạn.


Về ngôn ngữ thực hành, khi bắt đầu bước vào thực hành hội họa chuyên nghiệp, tôi có dành thời gian tìm hiểu về lịch sử tạo hình, về các trường phái nghệ thuật trên thế giới. Tôi học được rất nhiều từ các trào lưu nghệ thuật, từ cách tư duy nhằm phản chiếu nội tại ra ngoại tại, từ cách thực hành trên chất liệu của các trường phái ấy. Trong hội họa của tôi, rất dễ để nhận thấy những tín hiệu ngôn ngữ của tượng trưng, dã thú, biểu hiện, và đâu đó phảng phất không khí ma quái, liêu trai của siêu thực…


Nhưng tôi nỗ lực để không đặt mình vào bất cứ một trường phái nào. Tôi chỉ nỗ lực kể những câu chuyện của tôi, những câu chuyện xung quanh cuộc đời tôi và tôi nghĩ, nếu như chúng có sức mạnh thực sự thì chúng sẽ trở thành câu chuyện của mọi người.



Trong hội họa, tôi chủ ý tránh sự rối rắm về mặt hình họa, tôi để nhiều không gian trắng, tôi nghĩ trong cái rỗng chứa đựng được nhiều điều, càng rỗng càng đầy (Đạo đức kinh), những khoảng trắng đấy là biên giới của những suy tưởng, tưởng tượng. Điều này cũng tương đồng với trong văn chương, tôi luôn nỗ lực viết ngắn nhất có thể.


Tôi nhận thấy, dù tạo hình trên chất liệu nào, dù sáng tác dưới nhãn quan nào đi nữa thì thuộc tính lãng mạn là yếu tố quyết định sức sống của tác phẩm. Lãng mạn không những đã cấu nên một trào lưu nghệ thuật rộng lớn mà nó còn là một phương pháp sáng tác có sức sống bền bỉ và gan lì nhất. Nó là suối nguồn bởi con người luôn muốn trốn thoát khỏi sự trần trụi. Càng khổ đau, con người càng khát khao những đôi cánh của các thiên sứ và những vùng trời khác để mơ về.

Một bức tranh càng đẹp hơn khi nó có một đời sống độc lập mạnh mẽ, khi nó không còn mang trong mình những câu chuyện rong dài, khi nó không phải là một kẻ nô lệ mang vác những ý tưởng của kẻ sinh ra nó. Nó đẹp hơn khi đã trừ dần, trừ dần đi mọi lẽ để trở nên là chính nó mà thôi. Nhiều khi tôi đã quá tham lam khi muốn nói lên quá nhiều thứ trong một bức tranh, điều này khiến tác phẩm mất đi sự lung linh trong cái đẹp độc lập, cái đẹp tự thân của nó.

Thực hành nghệ thuật, tôi luôn nỗ lực để hướng tới những khả thể hư cấu, nghĩa là tìm đến những trạng huống dường như chưa tồn tại hay là những trạng huống đang ẩn nấp. Bên cạnh đó, thực hành nghệ thuật cũng đồng thời là cách tôi viết lịch sử thông qua những tác phẩm, một lịch sử được nhìn không phải bằng những sự kiện khô cứng mà là bằng những hình ảnh, biểu tượng, những ý niệm.


Ngày nay, khi đứng trước một nghệ phẩm, người ta sẽ cẩn trọng hơn khi phán xét nó đẹp, ý nghĩa hay nó xấu và vô nghĩa. Những kẻ khôn ngoan sẽ nói nó hợp hay không hợp với quan niệm thẩm mỹ của tôi. Nghĩa là quy chuẩn về cái đẹp đến hiện tại nó đã trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Nhưng tôi nghĩ mọi tác phẩm giá trị luôn dung chứa những sự thật nào đó.

Sự thật chính là cứu cánh cho sự bùng nổ về quan niệm cái đẹp trong nghệ thuật, về cách thức thực hành đa dạng hiện nay. Chính sự thật sẽ giúp nghệ thuật tránh đi những nguồn năng lương tiêu cực trong xu hướng nghệ thuật đương đại.

Luôn luôn phải có sự thật.

Những điều trên đây có thể chỉ đúng với bản thân tôi, đúng với cách thức thực hành của tôi. Ở cách nhìn của các bạn, có thể tôi chưa đúng hoặc không trùng khớp với các bạn. Nhưng tôi luôn học cách để chấp những tiếng nói dị biệt.



Từ đầu năm 2019, Lê Minh Phong bắt đầu vẽ ít hơn để dành thời gian thử nghiệm điêu khắc gỗ. Với một nghệ sĩ, họ cần rất nhiều thứ như tài năng, lòng kiên trì, sự chấp nhận tự hủy,… Nhưng đầu tiên, họ cần giữ được niềm cảm hứng. Cũng như văn chương và hội họa, cảm hứng với điêu khắc của Lê Minh Phong cũng khởi nguồn từ tham vọng tìm thấy suối nguồn thực sự của mình.

“Tôi sẽ dành một khoảng thời gian lớn cho thử nghiệm điêu khắc và hoàn thành cuốn tiểu thuyết thứ hai của mình” - Lê Minh Phong nói.



Bài: Navigator Media


Comments


ad1_2.jpg
IMG_7057.GIF
Navigator Business and Finance 2 1x4.jpg
bottom of page